Ở đoạn sông Tiền Đường chảy qua thôn Trúc, cạnh nhà tôi, vào dịp cuối Hạ đầu Thu, có rất nhiều cá Nga mi, một loại cá trắng, tròn lẳn, to như chiếc chuôi liềm. Cá Nga mi thường đi thành đàn, tìm thức ăn dọc theo bãi, trong làn nước nóng. Cá Ngami mùa này nhiều đến nỗi, mỗi khi có một đàn Nga mi lớn kéo vào gần bãi, thì hàng ngàn chiếclưng màu sẫm của chúng làm nước sông tối hẳn lại.
Nhưng tại sao lại gọi là cá Nga mi ? ấy là vì, xung quanh con mắt đen của cá, có một vành mi tròn, rõ - chỗ xám, chỗ vàng - rấtgiống mắt ngỗng non. Đôi mắt cá Nga mi dường như biết nói. Chính vì những đôi mắt của chúng, mà chưa bao giờ nhà tôi ăn cá Nga mi.
Nhưng năm ấy, năm mà cuộc"Cách mạng văn hóa" Trung Hoa vừa đi qua thôn Trúc, chúng tôi không còn loại thực phẩm nào để ăn cả ! Lợn, gà đã bị Hồng vệ binh trưng thu hết. Giá bảo vào mùa Xuân, còn có thể ăn châu chấu. Nhưng đây là dịp cuối Hạ đầu Thu không thể đi "quay" châu chấu" được. Cũng không thể ăn cháo rau vi hoặc cơm độncủ cải hết ngày này sang ngày khác được nữa.
Nói đến cơm độn củ cải, tôi lại nhớ mẹ tôi. Vốn là con gái một nhà Nho trung lưu, mẹ tôi chưa bao giờ phi ăn cơm độn. Từ ngày mẹ về nhà tôi, cũng thế. Vậy mà năm đó, người phải đi mua củ cải xấu, vì nó rẻ, về cạo vỏ, chặt ra từng khúc như những đốt ngón tay, thổi độn vào cơm ! Những khúc củ cái ấy, tròn và trắng, sao tôi thấy chúnggiống những đốt ngón tay của mẹ tôi đến thế ! Một bữa, gắp những đốt - ngón - tay ấy lên, tôikhông tài nào ăn được ! Tôi ngồi khóc. Cha tôi quay mặt đi. Anh chị tôi nhìn nhau. Lúc ấy, mẹtôi đã cầm lên từng miếng củ cải- trong bát mẹ, trong nồi - rồi dùng đũa gạt từng hạt cơm bámxung quanh chúng vào bát tôi. Gạt mãi, gạt mãi, người dành được cho tôi lưng bát cơm trắng! Cha tôi đứng dậy, rời khỏimâm. Anh chị tôi cũng học mẹ, gạt từng hạt cơm vào bát em. Cuối cùng, trong bát của mẹ và của anh chị tôi, chỉ còn toàn củ cải.
Tôi bưng bát cơm trắng cả nhà dành cho, trong lòng chợt vỡ oà ra một khối gì đó nóng bỏng, cólẽ là tình thương. Rồi cái khối nóng bỏng vừa vỡ oà ra ấy, nghẹn ngào dâng lên thành lời tôi :
- Từ nay, con sẽ ăn được tất cả... Cả củ cải lẫn rau vi!
Lại đến lượt mẹ và anh chị tôi ngồi khóc.
Rồi một bàn tay ấm áp đặt lên, xoa nhẹ trên đầu tôi. Tôi quay lại, ngẩng trông - cha tôi đã đứng sau tôi tự lúc nào.
Nhìn khắp lượt những đứa con của mình, cha tôi nói :
- Từ ngày mai, nếu đứa nào muốn ăn khá hơn, thì cha cho phép bỏ học, ở nhà đi làm cùng cha. Đứa nào muốn đi học, thì sẽphải ăn như thế này vậy. Cảnh nhà như thế, cha mẹ cho các contự chọn !
Tôi còn nhớ, lúc ấy, cả hai anh em trai chúng tôi đều quỳ xuống, nước mắt chan hòa. Rồi lần lượt, chúng tôi đều xin cha cho được theo học tiếp, dù phải ăn cơm độn củ cải hay cháo rau vi. Chỉ có chị gái tôi, lớn nhất trong ba anh chị em chúng tôi còn ở nhà là vẫn đứng im (tôi nói "lớn nhất trong ba anh chị em chúng tôi còn ở nhà", là vì anh cả tôi đã gia nhập Quân giảiphóng nhân dân Trung Hoa từ trước và đã hy sinh bên sông áp Lục, trong cuộc "Chống Mỹ viện Triều"). Đợi các em nói xong, chị nghẹn ngào thưa :
- Thưa cha ! Con đã lớn, lại là gái.Con xin cha cho con được ở nhà,giúp mẹ con chạy chợ và lo cho hai em ăn học !
Cha tôi đến bên chị tôi, cầm lấy tay chị tôi. Lặng lẽ hồi lâu, cha tôibảo với chị :
- Cha mẹ cảm ơn con ! Giời sẽ không quên người hiếu thảo đâu !
Quay sang chúng tôi, người nói :
- Thôi thì, ngày mai chúng ta đành đi câu cá Nga mi vậy !
Hôm sau, chúng tôi chuẩn bị đồ câu. Câu như thế nào, ra bãi sông, cha tôi sẽ dạy. Đồ câu mà cha bảo chúng tôi chuẩn bị rất đơn giản. Mỗi người chúng tôi phải có hai chiếc cần câu trúc, mỗi chiếc dài khoảng 2 mét rưỡi. Dây câu bằng tơ tằm se kỹ, to gấp đôi sợi chỉ, cũng dài bằngvới cần câu. Lưỡi câu được uốn bằng kim khâu mẹ cho, không có ngạnh. Phao câu làm bằng cuống hoa ngô khô, buộc thẳng vào dây câu, trên lưỡi câu chừng30 phân.
Đầu giờ chiều, nắng vàng tươi trên bãi. Bãi dài theo sông, đầy phù sa lỏng, vàng ruộm như mật. Nước sông đã rút xuống nhiều và gần như trong suốt. Vôsố những con chuồn chuồn bão,thân và cánh đều một màu vàng nhạt, đậu trên các ngọn cỏ, ngọn rau rệu, rau muối vừa nhô ra từ làn nước nông. Nhiều con bay đi bay lại trêu nhau.
Trước hết, cha bảo chúng tôi dùng những cành trúc có nhiều tay, đã bứt hết lá, đi đập lấy thật nhiều chuồn chuồn bão để làm mồi câu.
Chỉ một loáng, chúng tôi đã có cả một hộp xác chuồn chuồn.
Dạy chúng tôi mắc chuồn chuồn vào lưỡi câu xong, người bảo chúng tôi xem người câu trước làm mẫu.
Chúng tôi theo cha ra sau một bờ đất cao chừng nửa mét, giáp với làn nước nông đang chảy xuôi dọc bãi. Người bảo chúng tôi quỳ xuống lớp phù sa lõng bõng sau bờ đất. Người giải thích :
- Cá Nga mi rất tinh, nếu ta đứnghoặc nhô lên cao quá, trông thấybóng người dưới nước, chúng không bao giờ cắn mồi.
Rồi cha tôi lần lượt vung hai chiếc cần câu của mình, ném mồi ra sông, một thật xa, một rấtgần bờ. Phao nổi, mồi chuồn chuồn nửa nổi nửa chìm, lập lờ trong làn nước đang chảy nhẹ. Chúng tôi hồi hộp chờ. Mặt sôngmênh mông như một màu xám bạc. Nước nhè nhẹ chy xuôi, lặng lẽ như thời gian đang trôi vậy. Dưới bến xa, vài người đàn bà đang giặt quần áo. Tiếng chày đập vi của họ vọng đến, chầm chậm, câm câm, đùng đục.
Mãi không thấy cá về ! Tôi liếc nhìn anh mình, thấy nét mặt anhrất căng thẳng. Tôi nghĩ, chắc là mặt tôi cũng vậy. Chỉ gương mặt cha tôi là vẫn yên tĩnh như không.
Tôi nhắm mắt, chống cả hai tay xuống phù sa. Tôi thầm bái lạy thần sông. ở nhà, mẹ và chị tôi đang chờ chúng tôi mang cá về !Giời i ! Cha tôi suốt đời chỉ đọc sách, dạy học và làm thuốc; mẹ con chúng tôi không ai biết nghề hạ bạc là gì, cùng lắm, chỉ biết trồng mấy luống rau, màu ! Thế mà bây giờ, chúng tôi lại phải đi kiếm ăn ở sông Tiền Đường ! "Nga mi ơi ! Hãy về đây! Thần sông ơi, hãy đưa Nga mi về với chúng tôi !" - lòng tôi thầm kêu.
Khấn xong, tôi mở mắt nhìn, thì kìa, có một cái gì đó đang thay đổi trên mặt sông : đang một màu xám bạc đều đặn, ở giữa dòng, mặt nước bỗng sẫm dần lại. Từ trong đám nước màu sẫmấy, tiếng cá đánh đuôi vẳng đến, mỗi lúc một gần, một rõ. Rồi cái đám màu sẫm kia tràn nhanh vào bờ, nơi cha con tôi đang quỳ, như một bóng mây chiều.
- Cá về rồi ! - Cha tôi kêu khẽ. Hai tay người đặt nhẹ lên hai chiếc cần câu.
Chỉ một loáng sau, chiếc phao ở xa đã bị rút chìm nghỉm, dây câucăng như dây đàn. Cha tôi cầm cần câu giật ngược vào bờ, chú cá Nga mi đầu tiên bị kéo lên khỏi nước, lấp loáng ánh bạc, bay theo một đường vòng cung, cùng dây câu rơi xuống lớp phù sa lỏng sau lưng chúng tôi. Lưỡi câu không có ngạnh, sau khi rơi xuống bãi, giẫy giụa vài cái, là cátuột ra. Chưa kịp mắc mồi mới, cha tôi đã lại cầm lấy chiếc cần câu thứ hai, giật tiếp. Cá Nga mi đi ăn đàn, và cứ thế, hai tay cha tôi luôn mắc mồi, vung cần, giật cá vào bãi. Chúng tôi chỉ việc nhặt cá, bỏ vào chiếc giỏ ngâm trong một vũng nước, cho cá khỏi chết.
Sau khi đã được "thị phạm", chúng tôi chia nhau quỳ dọc bãi và cùng câu cá Nga mi.
Chiều hôm ấy, sau khoảng hai giờ đồng hồ liên tục mắc mồi, vung cần và giật cá vào bãi, chúng tôi thu được khoảng 9 cân cá Nga mi. Cha tôi câu được nhiều nhất.
Mẹ và chị tôi mang 7 cân Nga mi ra chợ Hàng Châu, đổi được 5 đấu gạo và một ít bột ngô. Hai cân cá còn lại, mẹ nấu cháo cho cả nhà ăn. Trước khi mổ cá, mẹ lầm rầm khấn :
- Nhân sát vật ! Hóa kiếp này chomày sang kiếp khác ! Nga mi ơi, chúng tôi cần phải sống !
Sau buổi ấy, chiều chiều, anh emtôi, ai không phải học, đều ra sông Tiền Đường câu cá Nga mi.
Thế là từ dịp cuối Hạ đầu Thu như tôi đã nói, đến gần hết mùa Thu năm ấy, cá Nga mi đã giúp chúng tôi không còn phải ăn cơm độn củ cải và cháo rau vi nữa. Sang đầu mùa Đông, hết mùa cá Nga mi, thì việc trồng màu đã khá hơn, mẹ và chị tôi cũng đã quen chạy chợ, dần kiếm đủ ăn. Từ đó, chúng tôi lại không bao giờ câu và ăn cá Nga mi nữa.
Sau này, chính cha tôi đã xây ngôi miếu thờ cá Nga mi ven sông Tiền Đường. Cũng chính tay người đã nặn một Nga mi bằng sáp trắng, đặt lên mâm bồng.
Hôm khánh thành, cả nhà tôi đứng trước miếu, ai cũng vái Nga mi ba vái. Về việc này, sau đó tôi có hỏi cha tôi :
- Thưa cha ! Thờ cá thì có phải là"mê tín", như ở trường con vẫn dạy không?
Cha tôi bảo :
- Chữ "mê" chính là chữ "mê" trong các từ "u mê", "mê cung","mê lộ", "mê muội"... Còn chúng ta đang rất tỉnh. Chữ "tín" nghĩa là "tin", là "niềm tin", "đức tin"... Người ta sống, phải có niềm tin, đức tin - tin vào giời đất, vào phúc đức. Thờ cá Nga mi, chính là ta thờ giời đất và phúc đức. Thờ cá Nga mi, là chúng ta thờ người đã bỏ mình cứu ta trong lúc khốn khó. Đó là "giác ngộ tín", là "minh tín", không phi là"mê tín". Con hãy yên lòng !
Đến bây giờ, tôi vẫn luôn thắp hương ở đền thờ cá Nga mi, ngôi đền mà cha tôi đã dựng lênngày ấy.
Lần nào con Nga mi bằng sáp trên mâm bồng cũng nhìn tôi bằng đôi mắt ngỗng non của nó